Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Loa phường và quản trị xã hội.





Sáng nào tôi cũng đi làm qua ngã tư Hàng Dầu và Lò Sũ (Hà Nội ). Cái lối đi quen thuộc khiến tôi chẳng bao giờ để ý cảnh vật xung quanh, chỉ biết cứ đến chỗ có tiếng hai cái loa hướng vào nhau ổng ổng như cãi vã thì đích thị đấy là ngã tư Lò Sũ - Hàng Dầu. Có bận cố lắng nghe nhưng tôi chẳng hiểu loa đang phát cái gì vì mỗi cái của một phường, phát hai nội dung khác nhau.


Chuyện loa phường dư luận có ý kiến cả chục năm nay nhưng vẫn vậy. Rõ ràng nhà quản lý biết thừa những rắc rối phiền toái nhưng vì lý do nào đấy họ vẫn duy trì sự tồn tại của chúng.

Mục đích của loa phường chủ yếu để thông báo cắt điện, dọn vệ sinh và tuyền truyền các đợt ra quân… Như vậy có thể nói chức năng chính của nó là góp phần quản trị xã hội.

Vì thế đừng hy vọng tiếng loa phường mất đi trong ngày một ngày hai, nhất là tình hình trật tự, trị an, tôn trọng pháp luật còn phức tạp như hiện nay.

Đấy là tôi đứng ở vị trí các nhà quản lý mà suy diễn như vậy, chẳng biết có đúng không. Nhưng mà dù chức năng nhiệm vụ của nó là gì đi nữa, thiết nghĩ, các nhà phụ trách loa phường ở các cấp cũng nên quan tâm tới một vài nguyên tắc thế này.

Trong giao tiếp, bất cứ ở dạng nào, đều phải hoàn tất quá trình: (người) NÓI phải (có người) NGHE, NGHE phải HIỂU, HIỂU phải LÀM thì quá trình giao tiếp ấy mới coi là thành công trọn vẹn.

Trong lý luận truyền thông kinh điển, quá trình này có thể diễn giải như sau: THÔNG TIN -> NGƯỜI TIẾP NHẬN-> THAY ĐỔI NHẬN THỨC-> PHẢN HỒI. Nếu bị gián đoạn ở bất cứ một khâu nào trong chu trình khép kín nói trên thì giao tiếp (thông tin) cũng bị coi là thất bại.

Như vậy có thể thấy ngay từ cái khâu đầu tiên (NÓI - NGHE) loa phường đã thua rồi còn gì. Nói mà không ai nghe thì mớ âm thanh ồn ào ấy chỉ góp phần làm ô nhiễm môi trường.

Mỗi giai đoạn lịch sử có những biểu tượng riêng. Tôi nhớ những năm 70-80  ở miền Bắc, trên các bức tranh cổ động cho đời sống công nghiệp hiện đại thể nào cũng vẽ những ống khói cao ngất nhả khói mù mịt lên bầu trời. Rồi giai đoạn ĐỔI MỚI là hình ảnh các khu tập thể tua tủa dàn ăng ten vô tuyến, trông rất thiếu thẩm mỹ.

Loa phường, cùng với những khẩu hiệu chăng dọc ngang các tuyến phố, có lẽ là những hình ảnh hiếm hoi từ thời bao cấp còn sót lại nguyên vẹn ở giai đoạn của nền kinh tế tri thức hôm nay. Chẳng thể phủ nhận sứ mạng lịch sử của khẩu hiệu và loa phường trong những ngày miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu. Song, mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng; những thứ có giá trị, hoạt động hiệu quả một thời không có nghĩa chúng vẫn phát huy tác dụng tốt như vậy ngày hôm nay.

Dân trí, thông tin và các loại hình truyền thông đã có bước phát triển rất mạnh, vì thế việc quản trị xã hội cũng nên quan tâm tới bối cảnh và đặc biệt là đối tượng để lựa chọn phương tiện sao cho hợp lý.                 

Ngô Thiệu Phong

         
     

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

Vài nét về Hiến pháp Mỹ




Hà Văn Thịnh

Cách đây 230 năm, năm 1783, cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ giành được thắng lợi – đây là thành công đầu tiên trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của toàn thể loài người bị áp bức trong thời đại tư bản chủ nghĩa!

Một Hiến pháp có trước… nhà nước

Điều “lạ kỳ” là sau thắng lợi đó, những nhà cách mạng Mỹ không thành lập một chính quyền cho tương xứng với công lao của những người đã khai sinh ra nền độc lập; hầu như họ không quan tâm đến việc ai sẽ giữ chiếc ghế nào, “ăn chia” ra sao chiếc bánh lợi quyền béo bở mà phải mất bao xương máu, suốt 10 năm trời mới giành được (17.12.1773-4.9.1783): Cách hành xử của những nhà cách mạng Mỹ chưa hề có tiền lệ – ai về nhà nấy, sau khi đã làm trọn bổn phận công dân, không cần biết đến chuyện nên (phải?) khen thưởng ai, như thế nào đối với sự “có công với cách mạng”!

Ý định đó của sự ấu trĩ của lòng tốt nhanh chóng bị thực tế tàn nhẫn của xã hội sau chiến tranh giày xéo, tình trạng vô chính phủ nhanh chóng xảy ra, tiểu bang nào cũng muốn giành cho mình sự độc quyền cao nhất, có lợi nhất, khiến cho 13 tiểu bang gây ra bao cảnh huynh đệ tương tàn, và “nước” Mỹ, theo cách nhận xét của George Washington, “giống như một lâu đài được xây bằng cát”. Muốn khắc phục tình trạng đó, giải pháp duy nhất là phải thành lập một chính quyền, đây là điều mà đến năm 1787, hầu như ai cũng biết. Nhưng, chính quyền đó sẽ ra sao? Nó giống với mô hình Pháp hay Anh? Những bậc tiên tổ của nhà nước Mỹ tương lai giật mình bởi họ đoan quyết rằng phải thành lập một mô hình nhà nước hoàn toàn mới, không giống với bất kỳ ai; và, quan trọng nhất, nó phải là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Sáu chữ đó là sáu chữ vàng bởi nó trở thành nền tảng, cội nguồn, nguyên tắc bao trùm mọi nguyên tắc trong suốt quá trình soạn thảo Hiến pháp (HP).

G. Washington, nguyên là Tổng Tư lệnh quân Cách mạng trước đây, được mời giữ ghế chủ tọa Hội nghị Lập Hiến. 55 con người trẻ tuổi (đa số dưới 40 tuổi, riêng A. Hamilton, vào năm 1787, chỉ mới 30 tuổi; J. Madison mới 36 tuổi – họ được coi là những cha đẻ của HP Mỹ) chính là các tinh hoa chính trị được tập hợp từ các tiểu bang, về sau được ca ngợi đó là những người tinh anh nhất, “gần như là thánh thần” của nhân loại vào cuối thế kỷ 18. Những gì lịch sử ca ngợi về tài năng của 55 người đó không hề quá lời: Chẳng hạn, Benjamin Franklin (1706-1790) là một người đa tài: thợ in, chủ tòa báo, thẩm phán, Chủ tịch Hội Triết học Mỹ, thống đốc tiểu bang, nhà ngoại giao, thương gia giàu có, người thành lập Đại học Pensylvania, người phát minh ra cột chống sét, ống thông tiểu, đàn harmonica, kính hai tròng, công ty cứu hỏa tư nhân và, ông nói thành thạo 5 ngoại ngữ… Tài năng, nhân cách và tầm nhìn vĩ đại đã được cộng hưởng để làm ra bản HP đầu tiên trong lịch sử loài người mà hầu như, không có bất kỳ một lỗi văn bản lớn nào!

55 “cha đẻ” của nhà nước Mỹ, trong đó nổi bật nhất là Alexander Hamilton (hình của ông được khắc trên tờ 10 USD), James Madison (người có hình trên tờ 50 USD) và Benjamin Franklin (trên tờ 100 USD)…

Ngày 25.5.1787, Hội nghị Lập pháp được khai mạc tại Philadelphia – “thành phố của tình huynh đệ”. Gần bốn tháng ròng rã, những cuộc tranh luận quyết liệt đã nổ ra và tận cho đến lúc đặt bút ký (17.9), nhiều đại biểu vẫn còn chất chứa những bất đồng. Bản dự thảo và những bất đồng đó còn được 5 triệu người dân xem xét kỹ lưỡng trước khi được Quốc hội chính thức thông qua vào năm 1789. Nhìn chung, HP Mỹ đã được làm ra trên cơ sở những định hướng tìm tới sự hoàn hảo có thể; được cụ thể hóa thành nhiều nguyên tắc do nhiều đại biểu đề xuất, được A. Hamilton và J. Madison diễn đạt phần nào qua những bài báo rồi tập hợp thành tác phẩm Liên bang thư tập (The Federalist Papers).

Những nguyên tắc lập pháp

Chúng ta muốn tạo dựng một nền tảng (HP) sẽ trường tồn qua mọi thời đại, vậy thì, phải dự liệu đủ những thay đổi mà các thời đại đó sẽ tạo ra. Nguyên tắc này khẳng định rõ những điều không bao giờ thay đổi như quyền tư hữu là thiêng liêng và bất khả xâm phạm; quyền sống, quyền tự do và quyền kiếm tìm hạnh phúc như Tuyên ngôn Độc lập đã chỉ ra; quyền người dân ủy nhiệm cho chính quyền, nhân dân có quyền bầu lên và bãi nhiệm chính quyền đó… Tất nhiên, có rất nhiều điều sẽ thay đổi nên HP dự liệu các khoản bổ sung – Tu Chính Án (Amendment, TCA), chẳng hạn, TCA 22, thông qua năm 1951, quy định tổng thống không được làm quá hai nhiệm kỳ.

Việc thành lập một chính quyền thích hợp phải do chính người dân lựa chọn thông qua sự biểu quyết rộng rãi nhất. Không một ai có quyền áp đặt mô hình nhà nước không tương thích với mong muốn và lợi ích của người dân. Sau rất nhiều tranh cãi, nhân dân Mỹ đã chọn mô hình nhà nước tam quyền phân lập; theo đó, một trong ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, luôn bị hai cơ quan kia giám sát.

Xu hướng sửa đổi HP để mưu đồ quyền lực nhiều hơn cho một vài cá nhân là xu hướng lạm quyền của mọi quyền lực; vì thế, phải thiết lập một cơ chế sao cho có thể ngăn ngừa mọi ý đồ thao túng và sửa đổi HP. Theo nguyên tắc này, quyền tham gia của mọi công dân là tối hậu chỉ khi nào có trên 2/3 thượng nghị sĩ hoặc thống đốc bang yêu cầu thì việc xem xét sửa đổi HP mới được đặt ra. Quy định này có nghĩa là, nếu muốn xóa bỏ quyền được trang bị vũ khí, phải có ít nhất 67 TNS hoặc 34 thống đốc bang yêu cầu.

Xu hướng lạm quyền và lộng quyền là thuộc tính tất nhiên của con người, vì thế, phải thiết lập cơ chế sao cho đủ khả năng để ngăn chặn mọi ý đồ lạm quyền đó. Ngoài cơ cấu tam quyền phân lập, HP Mỹ còn định rõ cơ chế các thành viên của Tòa án Tối cao, các thẩm phán của tòa án khu vực trong toàn liên bang, được giữ quyền trọn đời, nếu không xin nghỉ hưu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo (tâm thần, bệnh suy giảm trí nhớ…). Như vậy, tòa án sẽ không phải chịu bất kỳ áp lực nào từ phía chính quyền hoặc cử tri!

Đảng phái là cội nguồn của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa bè phái, đến lượt nó, chủ nghĩa bè phái là cội nguồn làm vẩn đục HP. Vì thế, cơ cấu tổ chức chính quyền không cho phép bất kỳ đảng phái nào có thể can thiệp vào bộ máy một cách trực tiếp. Mỗi đảng phái, trước HP, chỉ là một tổ chức công dân, chịu sự điều chỉnh, giới hạn của luật pháp.

Đa số người dân là thờ ơ với chính trị, vì thế, phải thiết lập cơ chế sao cho hạn chế đến mức thấp nhất sự vô trách nhiệm của người dân đối với việc bầu ra chức vụ lãnh đạo cao nhất. Nguyên tắc này khẳng định cách bầu cử, theo đó, tổng thống sẽ được quyết định bởi số đại cử tri tương đương với số lượng nghị sĩ của mỗi tiểu bang.

Các tiểu bang lớn luôn có xu hướng chèn ép các tiểu bang nhỏ hơn, vì thế, cơ chế tổ chức nhà nước phải hạn chế đến mức thấp nhất sự chèn ép này. Đây là lý do để các tiểu bang dù lớn hay nhỏ đều có hai thượng nghị sĩ trong thượng viện. Bất kỳ một đạo luật nào dù Hạ viện đã thông qua (nơi các bang lớn có lợi thế) đều phải được Thượng viện chuẩn y, và ngược lại.

Các cơ quan tư pháp dễ bị mua chuộc và lạm dụng, vì thế, phải có thiết chế cho người dân được quyền giám sát, quyết định trực tiếp đến các phán quyết tối thượng của tòa án. Nguyên tắc này đề ra cơ chế thành lập bồi thẩm đoàn (The Jury), do người dân bầu ra. Các viên chức của ba cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp không được tham gia vào bồi thẩm đoàn. Phán quyết của bồi thẩm đoàn về có tội hay không, mức án, là tối thượng.

Việc thay đổi hay ban hành các điều luật mới luôn ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người dân. Do đó, phải thiết lập cơ chế để hạn chế đến mức thấp nhất sự ban hành hay thay đổi một đạo luật, ngăn chặn mọi xu hướng tắc trách khi ban hành các văn bản luật pháp. Nguyên tắc này bảo đảm sai sót ít nhất (hầu như chưa xảy ra, cho đến thời điểm này) về việc ban hành đạo luật mới. Khi một đạo luật được khởi xướng ở Thượng viện chẳng hạn, nó sẽ được trình cho Tiểu ban Tư pháp xem xét, sau đó trình lên Thượng viện. Nếu được thông qua, sẽ tiếp tục được chuyển sang Tiểu ban Tư pháp Hạ viện, rồi toàn thể Hạ viện; cuối cùng mới được trình lên tổng thống. Đạo luật được thông qua, sẽ mang tên người đề xuất – vừa để vinh danh vừa để tăng tính trách nhiệm của dự luật. Nếu tổng thống phủ quyết, trình tự sẽ được làm lại từ đầu.

Quân đội, cảnh sát là công cụ của chính quyền nên phải tuân thủ các mệnh lệnh của chính quyền. Và, để ngăn ngừa sự lộng quyền, độc tài hóa, các quân nhân và cảnh sát đang tại ngũ không được phép tham gia vào cơ quan lập pháp. Nguyên tắc này mặc nhiên khẳng định rằng quân đội hay cảnh sát nếu họ vào thượng viện hay hạ viện, không có quyền phản kháng chính quyền, không có quyền được luận “tội” chính quyền, tức là không bảo đảm được năng lực tác chiến, vì khi luận “tội”, họ đang chống lại chính quyền. Quân nhân hay viên chức cảnh sát, muốn vào nghị viện, phải ra khỏi quân ngũ…

Trên đây là vài khái lược về sự hình thành và các nguyên tắc lập pháp của nhà nước Mỹ – nhà nước hiện đại đầu tiên trong lịch sử loài người – một mô hình nhà nước chưa thể tìm thấy sự đối sánh nào khả dĩ hiệu quả hơn. Đó cũng là mô hình nhà nước chưa hề có tiền lệ với bản HP cho đến nay là độc nhất vô nhị, trường tồn, bất chấp sự thay đổi về thời gian và không gian. Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang chuẩn bị bước qua một thời khắc trọng đại bằng việc lấy ý kiến toàn dân để sửa đổi Hiến pháp 1992. Rất mong mỏi rằng việc lấy ý kiến đó không phải là chuyện hình thức, bởi một sự thật giản dị: Nếu ngay cả HP cũng chỉ là bàn để cho vui thì không có cái gì trên đời này có thể được coi trọng! Một bản Hiến pháp khoa học, nhân văn, phù hợp ý nguyện của toàn dân, xu thế của mọi thời đại, chắc chắn là nguyên tắc, điều kiện đầu tiên cho sự phát triển vững bền…

Không phải ngẫu nhiên mà Lời Tuyên thệ của Tổng thống Mỹ chỉ có một ý ngắn gọn là BẢO VỆ HIẾN PHÁP. Một khi HP được soạn thảo hoàn chỉnh thì mọi cố gắng của công dân – kể cả TT, chỉ duy nhất một vấn đề là bảo vệ để thực thi đúng như HP đặt ra, không cần bất kỳ một sự thêm, bớt nào bởi những thêm hay bớt đó đều làm vẩn đục HP!

Huế, 24.1.2013
H. V. T.

Chúng ta đang để mất…chúng ta?






Trong bài viết lần trước cho mục Blog toà soạn, tôi có nói tới việc làm cho người dân để không phát sinh những hệ lụy đau lòng, kiểu “bần cùng sinh đạo tặc”. Sau khi bài báo được đăng, một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian gợi ý tôi viết thêm về bảo tồn các giá trị truyền thống, coi đó là sức mạnh của dân tộc.

Đề tài rất hay rất thời sự nhưng quá lớn, tự lượng sức mình không kham nổi, vả lại không phù hợp với Blog nên tôi chỉ xin kể ra đây vài mẩu chuyện.

Tháng 7/2011 tôi có chuyến công tác lên huyện Bắc Hà và Si - Ma- Cai tỉnh Lao Cai. Đúng thứ bẩy nên tôi tranh thủ thăm chợ Bắc Hà. Tại đây tôi vô cùng bất ngờ khi thấy các sạp hàng bày bán nhan nhản đĩa CD cùng với dầu hỏa, thuốc uống chữa bệnh và thuốc sâu. Hỏi mới biết đấy là đĩa CD bài hát tiếng Mông bà con mua ở bên kia biên giới rồi đem về bán lại. Vào mấy bản ở Lùng Phình, cách Bắc Hà hơn hai chục cây, tôi thấy bà con nghe và xem loại đĩa này rất nhiều, nếu không muốn nói là duy nhất.

Nghe đâu nội dung các bài hát là về tình yêu, quê hương, gia đình…, nhưng ca sỹ và phong cảnh thì được quay ở Trung Quốc, trên màn hình có hiện chữ Mông đã được Latin hóa.

Chợ Si-Ma-Cai nhỏ hơn Bắc Hà nhưng các loại đĩa CD như trên cũng được bày bán phổ biến. Tôi nhớ hồi đó ông Phó Chủ tịch Si-Ma-Cai Giàng A Hòa có bảo “đi thu nhưng không xuể, mới lại đó cũng là nhu cầu chính đáng của bà con…” Còn ông Thào Seo Cấu, Phó Chủ tịch Bắc Hà thẳng thắn nói bà con đang rất thiếu các món ăn tinh thần.

Cách đây mấy hôm, phóng viên đi công tác ở huyện Hạ Lang – Cao Bằng về kể bà con dân tộc Tày, Nùng ở mấy xã giáp biên cứ sang bên kia hát các bài hát truyền thống, phía Trung Quốc thu âm lại thành đĩa CD, “bắn” chữ Trung Quốc lên hình rồi lại bán về Việt Nam.

Còn cách thủ đô không xa, ở xã Giáp Sơn, Lục Ngạn, Bắc Giang, bà con dân tộc Sán Dìu ở thôn Thái Hòa đã tụ tập nhau lại để hát qua điện thoại cho bà con cùng dân tộc ở tận xã Năm Hòa, Phú Bình, Thái Nguyên. Tính ra có buổi tốn cả trăm ngàn tiền điện thoại, một số tiền không nhỏ, nhưng điều đó không quan trọng bằng việc họ hát cho nhau nghe những bài ca Sán Dìu truyền thống.

Nếu như hát qua điện thoại ở Lục Ngạn là một lời nhắc khéo cho những người làm công tác văn hóa, thì hơn thế, việc sang bên kia biên giới hát và mua đĩa CD về rất đáng lo ngại về mặt an ninh, quốc phòng.

Chúng ta tự hào vì hàng ngàn năm Bắc thuộc mà không bị đồng hóa. Vậy thì nay đừng để niềm tự hào đó bị tổn thương. Sự giàu có (thậm chí sự tồn tại) của một dân tộc không chỉ vì dân tộc đó lắm tiền nhiều của mà còn là một dân tộc có truyền thống văn hóa và giữ được bản sắc. Phải chăng chúng ta đang để đánh mất chính mình?

Ngô Thiệu Phong

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

Chém người - bần cùng sinh đạo tặc ?




Một đồng nghiệp, khi nhắc tới vụ tên Nguyễn Vũ Sang lẻn vào tiệm vàng chém chủ nhà cướp vàng, đã viết trên facebook là “bần cùng sinh đạo tặc”. Sau khi bị bắt, Sang khai cha mẹ chia tay, hắn cũng bỏ học lên TP.HCM làm thuê kiếm sống qua ngày. Vì thế tôi thấy nhận xét của đồng nghiệp như vậy cũng có lý.

                                                                        Tên Sang

Sự việc của tên Sang càng khiến dư luận quan tâm khi trị an khu vực phía Nam thời gian qua diễn biến manh động và tàn ác. Rồi đây các nhà quản lý và khoa học sẽ đánh giá những tác động của việc làm tới các vấn đề xã hội nảy sinh, trong đó có an ninh trật tự.

Theo dự báo của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, năm nay có khoảng 50.000 doanh nghiệp rời thị trường, cộng với 49.000 của năm 2011 là xấp xỉ 100.000. Con số này tương đương với một nửa số doanh nghiệp “chết” trong vòng 20 năm qua. Chưa bao giờ doanh nghiệp lại “chết” nhiều như vậy.

Doanh nghiệp “chết” thì người lao động buộc phải về quê để tìm thu nhập trên chính mảnh ruộng của mình. Nhưng cứ nhìn vào làn sóng li nông li hương lên phố kiếm sống thì đủ biết kiếm được đồng tiền nhờ vào mảnh ruộng cực cỡ nào.

Giảm tỷ trọng nông nghiệp là chủ trương chung của nhà nước. Nhưng các nhà kinh tế cũng đã chỉ ra rằng, “phi công bất thịnh nhưng phi nông thì bất ổn”.

Với hơn 70 % dân số sống ở nông thôn, việc tạo việc làm, có thu nhập ổn định cho người dân khu vực này trong bối cảnh giảm tỷ trọng nông nghiệp đang là bài toán khó giải.

Xây dựng nông thôn mới và đào tạo nghề cho lao động nông thôn đang được xem là những giải pháp cơ bản. Song, qua một thời gian triển khai, những biện pháp này vẫn cho thấy chưa phải là đột phá và thực tế còn nhiều vướng mắc, đặc biệt với một đất nước có sự khác biệt rất lớn (về mọi mặt) giữa các địa phương.

Lợi dụng chính những đặc thù và thế mạnh của địa phương để tạo việc làm, nhất là trong lĩnh vực du lịch và văn hóa, có lẽ là giải pháp lâu dài. Xin liệt kê vài ví dụ mà Trung Quốc đã thực hiện thành công.

Ở Nam Ninh - Trung Quốc bán rất nhiều khoai Lệ Phố. Người dân ở đây kể rằng một vùng ở phía Bắc Trung Quốc có một loại khoai tương tự, còn ngon hơn Lệ Phố. Nhưng từ khi bộ phim Tể Tướng Lưu gù công chiếu, trong đó có nói đến món khoai Lệ Phố, thì kỳ lạ thay, người dân ở Trung Quôc cũng như du khách đến đây đều tìm khoai Lệ Phố. Họ quên bẵng cái món khoai ở phía Bắc từng được tôn vinh là đặc sản trong lịch sử ẩm thực Trung Hoa.

Thị trấn Dương Sóc của Quế Lâm là khu du lịch nổi tiếng của Nam Ninh. Nếu đến đây bằng thuyền, thì từ bến sông lên thị trấn, người ta “bắt” du khách phải đi chừng nửa cây số dọc theo các quầy hàng của người bản địa. Và, dĩ nhiên rồi, bạn không thể không móc hầu bao. Chưa hết, vừa qua khỏi các tiệm hàng quyến rũ này, bạn phải di chuyển vào trung tâm thị trấn bằng taxi điện do chính người dân ở đây cầm lái.

“Đặc sản” của Dương Sóc là vở kịch “Ấn tượng chị Ba Lưu”, do đạo diễn nổi tiếng Trương Nghệ Mưu dàn dựng với sân khấu là cả một khúc sông.

Nghe nói một lần Trương Nghệ Mưu thăm Quế Lâm, lãnh đạo ở đây có ý mời ông đạo diễn trứ danh này làm một việc gì đó thực sự có ý nghĩa cho vùng đất du lịch này. Thế là vở kịch “Ấn tượng chi Ba Lưu” ra đời.

Giá vé để xem vở này hơn một triệu đồng. Với 2000 chỗ ngồi, vị chi mỗi tối thu về 2 tỷ đồng, nhân với 30 ngày trong tháng, doanh thu cỡ 60 tỷ đồng.

Điều đáng nói là 500 diễn viên của vở kịch ấy là dân của 8 thôn ở thị trấn Dương Sóc. Ban ngày họ đi làm đồng, tối về diễn kịch. Như vậy là lãnh đạo ở đây họ biết lợi dụng cái danh của Trương Nghệ Mưu, biết rõ lợi thế du lịch của địa phương để tạo việc làm cho người dân. Cái tầm của người lãnh đạo chắc là ở chỗ này.

Từ củ khoai Lệ Phố cho tới vở kịch “Ấn tượng chị Ba Lưu”ở nước cạnh ta, tôi cứ suy nghĩ miên man về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế.

Chúng ta đã xác định “Văn hóa là nền tảng tinh thần, là động lực phát triển...” Khẩu hiệu sao đúng thế, hay thế, nhưng thực hiện thì chưa được bao nhiêu! Việt Nam thiếu gì non xanh nước biếc, thiếu gì đặc sản địa phương, vậy mà bỏ phí, để người dân lam lũ, không việc làm, nảy sinh bao hệ lụy đau lòng thì cái lỗi ấy thuộc về ai?
        
Ngô Thiệu Phong.

Thứ Tư, 16 tháng 1, 2013

Đọc Nguyễn Bá Thanh lại nhớ Đỗ Việt Khoa.






Chưa đến mùa thi nhưng mình bỗng nhớ tới thầy Đỗ Việt Khoa hóa ra là bởi mấy hôm nay đọc không xuể các bài về ông Nguyễn Bá Thanh. Cả nước hy vọng, cả nước đặt niềm tin.
                             (Thằng đeo kính cầm micro cạnh Bộ trưởng Nhân là mình đấy, hi hi )

Nhớ tới thầy Khoa là nhớ tới một giai đoạn, ngắn thôi, phừng phừng khí thế chống gian lận thi cử, hồi Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân vừa đảm trách chức Bộ trưởng Bộ GD-ĐT.

Mình nhớ như in cái ngày thầy Khoa được Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân tới nhà riêng thăm. Sự kiện hân hoan thế mà trời mưa sụt sùi. Sau này ngẫm lại số phận chìm nổi của thầy, mình cho rằng đấy là điềm gở.

Từ Sở GD-ĐT Hà Tây, xe bộ trưởng lao vun vút, phóng viên phóng vù vù theo sau. Cả đoạn phố trước nhà thầy Khoa ngơ ngác, chẳng hiểu chuyện gì mà lắm xe đông người thế. Thầy Khoa, dù được báo trước, nhưng niềm vui và sự bất ngờ khiến thầy hưng phấn đến mức nhớn nhác. Ai hỏi thầy cũng muốn trả lời. Thầy ngó người này “báo cáo” nhìn người kia “báo cáo”, chẳng cái gì trọn vẹn.

Chuyến viếng thăm chưa đầy 20 phút kết thúc bằng màn trao quà. Bộ trưởng tặng thầy Khoa cây bút và cuốn sách “Bác Hồ với giáo dục” cùng lời đề tặng: “Cảm ơn thầy và chúc thầy giữ mãi được chữ nhân của người VN, chữ nghĩa của phận làm cha và chữ đức của người làm thầy”.

Rồi cả đoàn ào đi. Xã Vân Tảo của thầy Khoa im ắng trở lại. Tuy nhiên con tim sôi sục và lòng nhiệt huyết cháy bỏng của thầy chẳng hề im mà tuồng như càng rộn rã hơn…

Thật khó để vẽ lại chân thực một chân dung Đỗ Việt Khoa. Đã có 1001 nhận xét về thầy, thậm chí có người cho rằng ông này “không bình thường”. Nhận định này đúng hay sai tùy thuộc vào người ta định nghĩa thế nào là “bình thường”. Mình chỉ dám nói thế này, Đỗ Việt Khoa có cái hừng hừng khí thế đấu tranh của những đội viên thời cải cách; có ý chí tiến công không khoan nhượng của một người lính, nổ súng đùng đoàng lao về phía trước - phía kẻ thù. Nếu như trên mặt trận ì oàng tiếng súng, bên cạnh là đồng đội tin cậy, phía sau là hậu phương vững chắc, thì hôm nay, ở mặt trận này, bên cạnh và đằng sau thầy chỉ có người vợ khóc khóc mếu mếu cùng mấy đứa con dại. Dư luận và báo chí cũng bi bô được vài câu rồi cũng đành hậm hực nhìn theo cái ước mơ chống tiêu cực ngây thơ và trong veo của thầy giờ đã bóng chim tăm cá.

Thầy Đỗ Việt Khoa có bút, sách của “tổng tư lệnh ngành” ngỡ mình như có thượng phương bảo kiếm trong tay. Thầy Khoa hân hạnh được Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân úy lạo tại tư gia, nuốt từng lời động viên của Bộ trưởng và tâm niệm một cách thành kính rằng nhiệm vụ chống tiêu cực từ nay đã được trao tay, còn mỗi việc ra sức mà làm.

Thầy Khoa hôm nay vẫn giữ được chữ NHÂN, chữ NGHĨA, chữ ĐỨC của người cha, người thầy đúng như lời chúc của Bộ trưởng. Nhưng chẳng biết có còn hừng hực khí thế và quyết tâm chống tiêu cực như cách đây 7 năm?     

Nhiệm vụ của Ban Nội chính, nơi ông Nguyễn Bá Thanh về làm việc rất nặng nề. Và tương xứng với trách nhiệm, quyền hạn chắc cũng lớn chứ chẳng vừa. Chống tham nhũng tiêu cực, chống kẻ thù giấu mặt trăm mưu ngàn kế, có khi quyền lực như trời, đâu phải chuyện dẹp hàng quán rong ven sông Hàn!

Chẳng hiểu cơn cớ gì mà cứ đọc các bài về ông Thanh mình lại vẩn vơ nghĩ về thầy Khoa, người mà đã có thời cả nước đặt niềm tin, cả nước hy vọng./.

Ngô Thiệu Phong