Thứ Hai, 31 tháng 10, 2011

Tôn trọng bạn chồng.

Chẳng biết câu “giàu vì bạn sang vì vợ” có từ bao giờ nhưng câu này đúng quá. Mà chẳng phải riêng tôi, cánh đàn ông đều nhất trí như vậy.

Trên thực tế, bạn bè giúp đỡ nhau lúc thất cơ lỡ vận nhiều lắm! Việc khó và nan giải đến đâu nếu được bạn bè giúp đều vượt qua. Giúp nhau về vật chất không được thì chí ít cũng là nguồn động viên an ủi về tinh thần.

Còn chuyện sang vì vợ cũng thật hiển nhiên. Ở đây muốn nói tới những hành vi ứng xử của người vợ giúp chồng “sang” hơn trong mắt bạn bè và đồng nghiệp. Ngược lại, cũng có những cách ứng xử của người vợ làm người chồng “mất giá”.

Một người bạn tôi tính tình nghệ sỹ, quảng giao, hay rượu nên vợ thường kêu ca. Những lúc như thế, chẳng biết đúng sai, không cần phân bua, anh cười khì khì mong vợ xí xóa. Khổ, nhưng tật thích tụ tập bạn bè vẫn không bỏ được nên vợ anh bực lắm.

Rõ ràng trong chuyện này bạn tôi cũng có lỗi vì chưa cân bằng công việc giữa gia đình với bè bạn. Trong khi đó, vợ chồng lại không biết cách giải quyết những mâu thuẫn rất nhỏ, thuần túy về sinh hoạt.

Chính vì thế, vợ bạn tôi bắt đầu chuyển hướng “tấn công” sang đám bạn bè của chồng. Vợ bạn tôi một mực nghĩ rằng, chồng sinh hoạt không mực thước, đi sớm về muộn, thi thoảng lại rượu chè …là do bạn bè lôi kéo.

Bạn bè gọi điện tới số cố định, bất luận người gọi là ai, đều nhận được thông tin anh không có nhà. Nếu gọi vào di động của anh mà vô phúc chị bốc máy thì người gọi khản cổ mà a lô a lô vì chị nhấn nút nghe rồi quẳng điện thoại vào xó, chẳng thèm trả lời. Đáng buồn hơn là chị còn huấn luyện hai đứa con cũng làm hệt như chị.

Thôi thì “khuất mắt trông coi”, bạn bè cũng bực mình đấy nhưng cứ cố tin là anh bận và không có nhà. Tệ nhất là đến nhà anh chơi, chị nhìn khách như nhìn kẻ thù. Có lần nghe tiếng chuông, chị ra mở cửa, vừa nhìn thấy bạn chồng, chẳng nói chẳng rằng chị quay ngoắt vào gọi anh ra tiếp. Người nào được chị liếc xéo cất lời đáp, vâng chào anh, thì đã là diễm phúc lắm rồi cho dù cái âm “anh” rít qua kẽ răng kéo dài tưởng như không dứt. Sau cái nhìn xéo, chị nguẩy đít lên gác chẳng đoái hoài đến chuyện tiếp nước mời khách. Bạn tôi thấy vợ đi khỏi là mừng húm, nhấm nháy cười cười đẩy khách ngồi xuống ghế nói đàn bà ấy mà, kệ kệ, ngồi đây uống nước với tớ. Bạn bè không bằng lòng với cách ứng xử như thế, nhưng anh là người tốt, chân thành, lại hiền lành nên cũng bỏ qua.

Dĩ nhiên bạn bè đến nhà anh ít dần. Có những buổi bạn bè gặp gỡ để trao đổi công việc ngoài giờ hành chính, muốn gọi anh, nhưng tất cả con mắt nhìn nhau rồi lặng lẽ lảng đi nơi khác.

Anh bị tuột khỏi vòng tay bạn bè lúc nào không biết. Có những hôm rảnh rỗi, buồn, anh gọi người này người kia đến chơi, nhưng mọi người đều tìm một lý do nào đó để từ chối. Một vài bạn thân, vì quý anh đã hỏi thẳng, thế vợ mày có nhà không? Anh buồn bã buông ống nghe rồi lại nhấc máy điện cho tôi, nói đến lúc này mình mới thấm câu nói của cổ nhân: “Giàu vì bạn sang vì vợ”. Tôi buồn nẫu ruột chẳng biết an ủi bạn thế nào, chỉ nghe tiếng anh thở dài rồi dập máy./.

Ngô thiệu Phong

Thứ Ba, 25 tháng 10, 2011

Tôi được giải Đồng.

Tôi vừa được cái giải Đồng của Hiệp hội phát thanh truyền hình quốc tế (URTI) nên có dăm ba mẩu chuyện nhỏ liên quan, kể cho vui.

Được giải và nuốt lời.

Khi biết tin có giải, trong giao ban hệ, chị Mai Chi, giám đốc, nói phải thúc vào lưng mới có cái giải Đồng quốc tế này.

Chị Chi nói đúng, sau khi đoạt 3 giải (A, B, C) Báo chí quốc gia, tôi thầm nhủ không thi thố gì nữa.

Giải Vàng năm 2003 là được xếp Yến, khi đó là thư ký chi hội nhà báo, bảo lấy cái chương trình về phân ban, sửa chỗ này chỗ kia đem đi thi. Là nhân viên mình chấp hành, thế thôi.

Nghe đâu giải Vàng cũng oách lắm, bởi thế anh Xuân Bách, trong cuộc họp đã tiến cử mình đi dự ĐH nhà báo. Anh bảo mình trẻ, được giải cao nên xứng đáng đại diện cho Đài dự ĐH nhà báo toàn quốc. Nghe kể lại, cuộc họp ấy quyết liệt, gay gắt ra trò, có người miệng hét tay vung nói tôi cả đời cống hiến, bạc đầu sắp về hưu sao không được đi. Lại có vị khẽ khàng bảo phong độ là nhất thời, đẳng cấp mới là mãi mãi. Chắc có ý nói giải báo chí chẳng qua ăn may, tôi nghệ sỹ ưu tú hẳn hoi, cả đời chuyển thể kịch truyền thanh, mới là đẳng cấp.

Cuối cùng thì người ta cũng chiếu cố cho mình đi dự Đại hội nhà báo toàn quốc. Khiếp, đến ĐH mới thấy toàn cây đa cây đề, giám đốc, tổng giám đốc, tổng biên tập… đầu bạc trán hói, quân lính tháp tùng, xe xe pháo pháo, xách ca táp tới tận cửa phòng họp. Chắc mỗi mình là phóng viên quèn, hẳn nào họ nâng lên dập xuống mãi mới cho đi dự cũng phải.

Mình chẳng nhớ ĐH có nội dung gì, chỉ nhớ vị Chánh văn phòng Hội nhà báo VN lên bục nói dăm ba câu, sau đó chuyển hẳn sang đả kích cá nhân, đại ý cái thằng Chủ tịch Hội khóa trước tài đã hèn đức lại mọn, nhân cách chẳng ra chó gì… Đại biểu nín thở, may sao cây đại thụ là nhà báo Hữu Thọ chặn ngay, nếu không chắc chắn ĐH sẽ biến thành nơi cạnh khóe, chửa bới và rỉa rói nhau.

Chuyện chửi bới nhau ở Đại hội chẳng biết thực hư thế nào, nhưng về ngó cái giải báo chí của mình thì đúng cái ông suýt bị chửi, bị tố là nhân cách xấu xa kia ký, ký tươi hẳn hoi nhé, tự dưng chán.

Kể thêm cái hôm nhận giải Vàng ở Bảo tàng Hồ Chí Minh, lần đó ông Nguyễn Văn An, Chủ tịch quốc hội trao giải Vàng. Quan khách đông đủ, chớp hình lia lịa, phóng viên quay phim lăng xăng chọn chỗ đặt máy. Trao giải xong, ông An lui lại đứng cạnh mình để báo chí chụp ảnh. Bất thình lình mình bị xô nghiêng từ phía sau, một người chen vào đứng cạnh. Hóa ra ông đạo diễn M.C ở VTV muốn có cái ảnh đứng cạnh ông chủ tịch quốc hội.

Mình đứng chệch sang bên nhường chỗ thầm nghĩ, cái giải báo chí phần nào thể hiện tài năng của một nhà báo nhưng hình như nó không luôn song hành với tư cách. Cái giải Vàng trên tay bỗng nhẹ hều, chán. Giờ “có tuổi” ngẫm lại mình cho rằng M.C là người trọng hình thức thôi chứ nói “tư cách” thì nghe nặng nề quá.

Ý định không muốn thi thố nữa xuất hiện từ lúc cần trên tay cái giải Vàng, bị một cú hích nghiêng người, rồi sau đó là chuyện chửa bới ở đại hội. Nhưng khổ, cái thằng tôi tuổi mới ngoài 30, tâm chưa tĩnh, vẫn cứ vướng vào vòng hỷ nộ ái ố của trần gian. Nhớ cái thằng cha nào nói phong độ là nhất thời đẳng cấp mới là mãi mãi lại lộn ruột. Đã thế bố mày thi tiếp xem phong độ với đẳng cấp thế nào.

Hai năm tiếp theo, mình hốt trọn hai giải còn lại trong bộ “huy chương” của Giải Báo chí quốc gia. Mình nghe phong thanh, thằng Phong chắc suốt ngày tính chuyện thi thố. Hóa ra thi với thố chỉ tổ gây ngứa mắt, khó chịu. Biết vậy, mình lặng lẽ rút lui.

Mấy năm liền, Hệ VOV2 không đoạt giải lớn, khi chị Mai Chi về lại càng không. Là chi hội trưởng nhà báo, mình phải có trách nhiệm. Vậy là buộc phải gửi tác phẩm “Huyện một trường, trường một lớp” dự thi Liên hoan phát thanh. Hôm sang Ban thư ký nộp bài dự thi, vì quá số lượng, đã chủ ý rút lại tác phẩm của mình, nhưng chị Lan Hương (trưởng ban) nói cứ để đấy, mày có duyên ăn giải. Đúng là có duyên thật, giải Vàng, được bác Hiền trao hẳn hoi, mình thắm thiết nhìn bác nói cháu cảm ơn, nhưng bác cứ nhìn đi đâu, mình cố bắt chặt tay nhưng sao vẫn thấy long lỏng thế nào. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng mình được “sờ” tay Tổng giám đốc, nhớ mãi.

Đã định rửa tay gác bút, dẫu chỉ nói với mình, nhưng sau nuốt lời vẫn thấy ngượng.

Mấy tác phẩm này vẫn thời sự .


Nói thêm một chút về chủ đề 3 tác phẩm đoạt giải Báo chí quốc gia. Cái thứ nhất về phân ban ở THPT, cái thứ nhì về chương trình và SGK, và cái cuối là hội khỏe Phù Đổng. Xin cược rằng ba nội dung này tiếp tục là vấn đề nóng của GD hôm nay và những năm tiếp sau. Nói thế để khẳng định, đến hôm nay, mình vẫn trân trọng, tin tưởng và tự hào về nội dung ba tác phẩm được giải nói trên.

Sau này còn một số chủ đề mà nếu chọn đi thi chắc cũng sẽ đoạt giải cao. Đấy là vấn đề về thiết bị dạy học trong đợt thay sách, lão sư hổ mang ở Chùa Đậu – Hà Tây và hơn 100 người dân sống vô chính phủ ở ngã ba biên giới: Trung Quốc – Mèo Vạc (Hà Giang) và Bảo Lạc (Cao Bằng).

Về thiết bị dạy học, một quan chức ở Bộ GD-ĐT đã gọi điện, nhắn tin hằm hè đe dọa mình không dưới một lần sau khi nghe chương trình phát sóng. Có lần vị này còn bâng quơ nói anh Hiền (tổng giám đốc) rủ tớ về Đài nhưng tớ từ chối. Chẳng biết thực hư hay cáo mượn oai hùm. Thằng cha này cay cú lắm nhưng chẳng làm gì được mình. Không 21/6 nào hắn quên chúc mừng, cứ cho là “send group” đi, nhưng khôn ranh, thế lực, ô dù, tiền bạc như hắn mà làm thế thì ít nhiều cũng có động cơ, chắc hắn giễu mình đây.

Còn vụ lão sư hổ mang ở chùa Đậu (nơi có nhục thân hai vị thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường) mới khiếp, lão gửi đơn kiện mình đi khắp nơi, từ Chủ tịch nước tới Giáo hội, từ Văn phòng chính phủ tới Đài. Chị Kim Cúc (phó tổng) gặp mình nói thôi, đụng vào tôn giáo lúc này phiền lắm. Chùa Đậu trước đó có vụ trộm giết chết một chú tiểu, nhiều cổ vật quý trong chùa biến mất thay vào đó là đồ giả, rồi nhiều chuyện bê bối khác mà chính quyền sở tại cũng phải bó tay. Nghĩ lại giờ vẫn còn cay lão sư bất chính này.

Vụ hơn trăm người Mông sống như ma, như người nguyên thủy ở lưng chừng trời, trên một rặng núi đá có tên Lũng Cò sát biên giới Việt Trung thì lại là chuyện vừa bức xúc, vừa đau lòng. Mình lấy cái tít Lũng cò, nước và nước mắt vì trên đó họ chết dần vì khát do thiếu nước, do mất vệ sinh; hơn trăm người không biết mình là dân nước nào, vùng nào...

Mình lên trên đỉnh Lũng Cò gặp đúng đám ma cháu bé 3 tuổi chết vì tiêu chảy (do thiếu nước, mất vệ sinh). Cái xác treo trên vách nhà đã mấy hôm, ở độ cao gần 2000 m, nhiệt độ thấp chứ không thì trương phềnh, thối um rồi. Mình cố dướn người vạch cái chăn chiên ra mà chẳng thấy mặt thằng bé đâu, chắc cái xác đã quắt lại như con chuột.

Mình thu được tiếng kèn, tiếng trống, tiếng người Mông đến làm ma rên rỉ chẳng biết vì say hay vì thương xót thằng bé yểu mệnh. Những tiếng động ấy đã tạo nên một không khí ma quái, chết chóc, tang thương và rùng rợn.

Mình phải kể đề tài này dài chút vì nó là nguồn cảm hứng, là cái tứ cho tác phẩm đoạt giải Đồng của Hiệp hội phát thành truyền hình quốc tế.

Bữa trưa ở trên cánh đồng đá nhọn hoắt như chông chĩa thẳng lên trời có tên Lũng Cò quanh năm mây phủ này là mèn mén ăn kèm mấy gói mỳ tôm lính biên phòng đem theo. Mèn mén đã ăn nhiều hồi còn thường trú ở Sơn La, nhưng đây là lần đầu tiên thấy một bé gái người Mông xay ngô làm mèn mén. Cái tiếng ầm ì của cối đá xay ngô đã ám ảnh mình từ hôm đó.

Hoàng hôn ở Lũng Cò xuống rất nhanh. Bốn lính biên phòng tiểu khu Bảo Lạc xốc ba lô súng ống giục tôi về. Họ lo lắng ra mặt bởi Lũng Cò, dù thuộc lãnh thổ VN nhưng lính Trung Quốc thường ngang nhiên đi tắt qua bản này để tuần biên. Cứ nhìn đầu lọc thuốc lá vứt rải rác là biết. Sự hiểm nguy và mờ ám còn hiện trên những hòn đá được mài phẳng, ghi nắn nót những số hiệu kèm chữ tàu rải rác dọc đường mòn.

Đây là phóng sự rất tâm đắc của mình, nhưng hồi đó tham quá, gửi cả hai tác phẩm thì đời nào họ cho cả hai được giải. Được một cái thôi, cho dù “ Lũng Cò, nước và nước mắt” mình đã ăn gian đề tên Nhật Minh – Thiệu Phong.

Hồi đó chú Trương Cộng Hòa có sửa cho mình tác phẩm này, ông thích lắm, mấy lần bảo mình đưa để chuyển lên cho ông Phạm Thế Duyệt. Bây giờ lục lại không tìm thấy CD của tác phẩm này, tiếc quá.


Làm “nghèo đói” trong hoàn cảnh đói nghèo.


Bây giờ mới kể chuyện làm “ Tiếng cối xay ngô và tiếng kèn lá gọi bạn tình” đoạt giải Đồng URTI.

Nghe được giải Đồng, mới đầu mình cười nhạt nhưng ngó cái quy chế (rules) của URTI thì thấy trên 100 tác phẩm họ chọn ra 4 tác phẩm xếp thứ tự, Grand Prix -> Bạc -> Đồng và Giải đặc biệt (Special award). Như vậy cái Đồng này cũng có giá trị đấy chứ?

Quay trở lại với việc thực hiện tác phẩm “Tiếng cối xay ngô và tiếng kèn lá gọi bạn tình”. Thoạt đầu tôi không có ý định viết, nhưng lãnh đạo hệ quyết định tôi làm một tác phẩm, anh Nhật Minh chỉ đạo quân làm một cái nữa. Mình không giãy ra được, phải làm thôi.

Khi đọc chủ đề nghèo đói tôi nhớ ngay đến món mèn mén và tiếng cối xay ngô mà tôi bị ám ảnh ở Lũng Cò. Tôi hỏi Giàng Xeo Pùa bây giờ còn tiếng xay ngô này không, còn mèn mén không. Pùa nói không. Cái tứ của tác phẩm bắt đầu hình thành như thế.

Đến bây giờ có giải, ngẫm lại lắm lúc cười phì, mình thực hiện tác phẩm có chủ đề nghèo đói này trong hoàn cảnh …đói nghèo.

Xe không dám điều vì đường đi gian nan lắm. Mình và Pùa nhảy xe khách, cũng may xe khách bây giờ khá tốt. Lên đến Bắc Hà 4 giờ 30, tiết kiệm Pùa bảo cứ vào nhà Pao, anh tao. Mình lượn qua nhà anh Pao, thấy trời vẫn mù, nhà vẫn ắng, lại vạ vật. Vài lần như thế mới dám đưa tay nhấn chuông.

Từ Bắc Hà lên Xi ma cai thì đi bằng đủ các phương tiện, xe khách, xe ôm, tự đi và đi nhờ. Nhiều chuyện vui lắm, không kể hết ở đây được.

Đến khi dựng tác phẩm này cũng rất chi là buồn cười. Ngó ngược ngó xuôi xem trong đám các em ở hệ có ai đọc được được chút là nhờ, phòng đọc cũng chẳng có, toàn đọc theo lối "nhảy dù". Đọc mộc xong đem về, đợi tối, khi máy rỗi, ngồi kỳ cạch pha âm. Nghe thấy ổn thì chạy mua cái CD trắng giá 5 ngàn đút vào máy tính và… burn. Sau 5 phút đã có một sản phẩm đoạt giải Đồng quốc tế, hi hi.

Hôm trình bản thảo cho lãnh đạo hệ VOV2 xem, hệ yều cầu thêm chỗ này bỏ chỗ kia. Chị Chi nói nếu không bỏ đi, ngộ nhỡ được giải mà họ đem ra "bêu" thì sao? Lúc đó mình tiếc nhưng lúc này mình thấy đó là sự thận trọng cần thiết. Chị Chi nói thấy vẫn chưa ổn. Mình lo, nhưng sau đó thì đánh giá cao ý nghĩa quản lý trong nhận định này.

Chẳng biết bên Quan hệ QT có làm cái nhãn CD tử tế không, nhưng hôm đó, vì mình chữ xấu nên nhờ Phương Trang viết cái nhan đề rồi dán vào CD, trông buồn cười lắm. Lẽ ra phải có logo VOV hoành tráng, in ấn màu sắc, trang trọng. Ờ, mà biết đâu thô mộc và handmade như thế tây nó lại thích thì sao. Vả lại, quan trọng ở cái nội dung. Song, vẫn tiếc, nếu in CD bằng máy chuyên dụng thì chất lượng hơn nhiều.

Trong văn bản giao nhiệm vụ của lãnh đạo đài có phân công trách nhiệm cho từng bộ phận đấy, nhưng…, có đưa cái văn bản đó sang thì thưa gửi trình bẩm và chờ tướt bơ, thôi mỗ tự làm.

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2011

Chơi với con, sao mà khó thế!

Vừa gặp tôi ở cổng cơ quan, Quỳnh – cô bạn động nghiệp đã than vắn thở dài, nói đêm qua mệt quá anh ạ. Vốn tính tếu táo, tôi cười cười nói anh rất muốn chia sẻ cùng em nhưng trước hết nên coi đó là tin tốt hay tin xấu đã. Quỳnh nghiêm mặt nói không anh ạ, chị ô - sin về quê, con bé nhà em nhất định không chịu ngủ với mẹ. Hỏi sao, Quỳnh bảo nó quen ngủ với osin rồi chớ sao.

Chuyện chỉ có vậy nhưng nó cứ lởn vởn trong đầu tôi cả buổi. Tôi thử lý giải vì sao con cái lại thích ngủ với người lạ hơn cả mẹ mình. Câu trả lời ai cũng thấy là ngày nay nhiều bậc phụ huynh quá bận bịu với mưu sinh nên ít có thời gian bên con. Con ngày học với cô, tối ở với ô sin nên mãi thành quen. Ô sin nghiễm nhiên thành mẹ.

Nhớ lại cái thế hệ tuổi hơn 40 như chúng tôi, nhà nào ở nông thôn mà đông con thì tối cha mẹ đôi khi cũng chẳng biết chúng ngủ đâu. Điểm “quân số” không đủ, ới cổng trước, hò cổng sau chẳng thấy hóa ra vài đứa ngủ vùi trong đống rơm. Đúng là thời đó cha mẹ bận việc đồng áng cũng có ít thời gian quan tâm tới con cái nhưng con trẻ chẳng đứa nào rời xa được cha mẹ.

Đến hôm nay, chuyện con cái thích ngủ với ô sin hơn với mẹ chẳng biết nên buồn hay vui. Ối nhà kiếm được chị ô sin hợp con hợp cháu như thế thì mừng húm như đào được vàng, giữ rịt trong nhà. Hễ ô sin ngỏ ý muốn về quê là vợ chồng lại nhỏ to thầm thì bàn bạc xem “chế độ đãi ngộ” thế nào. Thời buổi này kiếm được chị em ô sin quý con quý cháu mình như thế đâu dễ. Trẻ con tinh nhạy lắm, phải thương quý chúng thật lòng thì mới mong chúng đáp trả tình cảm. Yêu kiểu đầu môi chót lưỡi thì may lắm cũng chỉ lấy được của trẻ lời chào, không bao giờ tìm được nụ hôn và cái ôm chầm thắm thiết. Vậy nên khi con cái hợp với ô sin, thích ngủ với ô sin, thì ở một góc độ nào đó, cũng là điều mừng.

Chuyện về người giúp việc thời nay nhiều vô kể. Hàng xóm nhà tôi một hôm tá hỏa khi đứa con gái đang tuổi bập bẹ nhất định không chịu nói “đi dép” mà nói thành “đeo dép”. Hóa ra cháu học cách nói của chị ô sin, một người quê Vĩnh Phúc. Gia đình sửa mãi chẳng được, cuối cùng đành tiếc nuối để ô sin tạm nghỉ trong thời gian cháu học nói.

Nếu trẻ thích ngủ với ô sin hơn với mẹ, ưa nói “đeo dép” hơn “đi dép” thì rõ ràng một phần văn hóa của người giúp việc đã thấm vào suy nghĩ và hành động của con trẻ. Nếu người giúp việc chân chất, thật thà, hồn hậu thì thật quý hóa, nhưng ngộ nhỡ chẳng may gặp người còn nhiều khiếm khuyết trong hành vi, ứng xử thì hậu quả khôn lường.

Chẳng có ô sin thì cha mẹ cũng đã phải học cách chơi với con. Chơi với con, trò chuyện với con, học cùng mỗi ngày vài giờ liệu có khó không? Vẫn biết cuộc sống ngày càng nhiều áp lực, nhưng người mẹ nào ý thức được tầm quan trọng của việc giao lưu mẹ - con ấy thì chẳng có gì là khó. Nói vậy nhưng vẫn có người mẹ, vì đi làm về mệt, đã quắc mắt quát con, hỏi gì mà hỏi nhiều thế; nói gì mà nói lắm thế; đừng bám lấy mẹ nữa, mẹ mệt lắm…Những câu tưởng vô hại, nhưng kỳ thực nó đang đào sâu thêm cái hố ngăn cách giữa tình cảm mẹ con. Rồi một ngày kia, họ bỗng giật mình khi thấy con cái im ỉm mỗi đứa một phòng, chẳng đứa nào muốn tâm sự cùng cha mẹ. Đến khi ấy, nếu xảy ra xung đột, thì giải quyết mọi việc sẽ vô cùng gian nan.

“Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, không ai thương yêu con cái bằng cha mẹ. Cha mẹ nào cũng muốn mọi điều tốt đẹp và toàn bích cho con. Chính vì thế, họ luôn mong muốn được dìu dắt những bước đi đầu đời của con. Mong ước là vậy, nhưng cuộc mưu sinh khắc nghiệt và đầy ma lực đôi khi đã cuốn người ta đi. Đã có người quên mất tài sản quý nhất mà họ đang sở hữu là con cái chứ không chỉ biệt thự và xe hơi. Bởi thế đã có người thốt lên, chơi với con, sao mà khó thế ?

Ngô Thiệu Phong.

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

Những bài học về kế sách giữ nước của ông cha.

Năm 216 TCN, nhà Tần bình định Bách Việt, trong đó có Lạc Việt và Âu Việt của nước Văn Lang thời Hùng Vương. Tần Thủy Hoàng tổ chức 50 vạn quân giao cho tướng Đồ Thư phụ trách (đến công nguyên nước ta mới có khoảng 1 triệu dân).

Đánh Bách Việt, chúng không chỉ dùng số lượng binh lính hùng mạnh mà đi theo đạo quân ấy còn có thêm một lực lượng khác mà chính sử Trung Quốc gọi là tội đồ, là “chuế tế” (rể tồi), đại diện cho lực lượng nhân chủng bất hảo.
Chúng đi theo lực lượng quân đội với nhiệm vụ kết ngẫu với nữ cư dân bản địa để tạo ra một giống người phương Bắc, thưc chất là di truyền gen và giống rất tồi cho nước bị xâm lược.

Trong cuộc xâm lược đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã Viện cũng vẫn tiếp tục vận dụng âm mưu thâm độc này.

Sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà ở thế kỷ thứ I, trước khi về nước, Mã Viện đã để lại một bộ phận lính tráng sống hỗn canh hỗn cư với người Việt mà lúc đó đã bị nhà Hán đặt ách đô hộ. Nói cách khác, phong kiến phương Bắc không chỉ dùng vũ lực, tấn công nước Việt bằng sức mạnh quân sự, mà còn muốn xâm lăng dân tộc ta cả về văn hóa.

Trong quyển Thủy kinh chú (ghi chép về các dòng chảy), một tác giả viết sách địa lý người Trung Hoa tên là Lịch Đạo Nguyên, ghi lại rằng, trong một lần đi du lịch để viết sách (thế kỷ 5- 6), ông đến một nơi có thủy danh là sông Thọ Linh (sông Gianh – Quảng Bình). Tới đây, Lịch Đạo Nguyên thấy một đám đông người chạy ra chào đón ông, một người từ phương Bắc đến dòng sông ở phương Nam xa xôi, và đám đông tự xưng: “Chúng tôi là Mã Lưu Nhân đây”. Mã chính là Mã Viện, có nghĩa là người của Mã Viện để lại.

Bây giờ đến bên bờ sông Gianh - Quảng Bình, chúng ta không còn thấy dấu vết gì của đám Mã Lưu Nhân ấy nữa. Có được như thế là nhờ ông cha ta biết cách chống lại âm mưu Hán hóa.

Vào TK 19, hai ông Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái có viết “Đại Nam quốc sử diễn ca”, trong đó có 4 câu nói về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở thế kỷ thứ I: Bà Trưng quê ở Châu Phong / Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên/ Chị em nặng một lời nguyền/ Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân. Như vậy, theo hai tác giả này thì động cơ nổi dậy khởi nghĩa chỉ vì “lời nguyền”, vì “thù chồng” ?

Việc trình bày động cơ kháng chiến của Hai Bà theo quan điểm của nhà Nho đã ảnh hưởng đến việc nhận thức của nhiều người. Rất may, trong quyển sử ca dân gian cổ hơn cả Đại Nam quốc sử diễn ca là sách Thiên Nam ngữ lục, ở đó có bảo lưu trữ 4 lời thề sống hát của Hai Bà Trưng vào lúc ra quân đánh giặc: Một, xin rửa sạch quốc thù / Hai, xin khôi phục nghiệp xưa họ Hùng / Ba, kẻo oan ức lòng chồng / Bốn, xin vẻn vẹn sở công lênh này. Như vậy “rửa sạch quốc thù” và “khôi phục nghiệp xưa họ Hùng” mới là “cương lĩnh” chính trong cuộc nổi dậy của Hai Bà. Cuộc nổi dậy nhân danh việc bảo lưu gìn giữ truyền thống để đánh giặc giữ nước chứ không chỉ vì chuyện gia đình. Kế sách giữ nước ở đây là coi trọng giá trị truyền thống dân tộc.

Lịch sử đã ghi lại rằng, ngay từ cuộc đàn áp của Mã Viện vào thế kỷ thứ nhất, thì phong kiến phương Bắc đã ỷ vào số lượng để tràn xuống phương Nam, đất Việt. Chúng đã tàn sát binh lính và trai tráng nước Việt. Trong thời gian dài đô hộ, do hoàn cảnh đã xuất hiện nhiều gia đình chồng Hán vợ Việt, nhưng những đứa con sinh ra khi đòi bú mẹ thì không nói xỉnh mủ xin cẩy ủa nai mà nói rằng, mẹ ơi cho con bú.

Khi sinh, đứa trẻ biết nói mẹ ơi cho con bú, đến khi về với ông bà tổ tiên, người Việt cũng có những táng thức riêng của mình cho dù đang sống trong đêm dài Bắc thuộc. Điều này được minh chứng qua khảo cổ. Ngày nay, bên cạnh những ngôi mộ Hán xây cuốn vòm bằng gạch múi bưởi, thì ở nhiều nơi tiếp tục phát hiện các mộ thuyền (quan tài bằng thân cây khoét rỗng hình thuyền) của người Việt cổ.

Trong lịch sử, kẻ đi đồng hóa nhiều khi lại bị đồng hóa bởi đối phương có một nền văn hóa phát triển và đặc biệt là khi đối phương có ý thức cũng như biện pháp giữ gìn bảo lưu. Một quốc gia không còn nếu mất đi ngôn ngữ, bởi mất ngôn ngữ là mất văn hóa, mất văn hóa thì một quốc gia chỉ còn là cái “xác”. Trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, rồi đế quốc thực dân cai trị, nhưng cha ông ta vẫn giữ được tiếng nói của mình, sáng tạo ra chữ Nôm, bảo tồn chữ Việt. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, tiếng Việt đang bị đe dọa và thực tế đã bị xâm phạm nghiêm trọng. Tiếng Việt đang xấu đi nếu không có biện pháp chấn chỉnh. Và từ chỗ “xấu” đi tới chỗ mất hẳn không bao xa. Đó là bài học thứ nhất.

Khi nói tới biểu tượng văn hóa truyền thống của cha ông phải kể tới trống đồng. Thực ra trong quan niệm của người Việt cổ, đây là mô hình vũ trụ, có niên đại từ thời Hùng Vương.

Mặt trống đồng được người Việt cổ coi là tầng thứ nhất của vũ trụ, gồm có mặt trời và sinh vật chuyển động xung quanh mặt trời, ngược chiều kim đồng hồ. Tiếng Mường - ngôn ngữ việt cổ - gọi là tầng thứ nhất này là “mường blời”, tức là mường trời. Chim muông, con người xoay quay mặt trời gọi là mường tác, tức mường đất. Tang trống gọi là mường nác, tức là mường nước. Và dưới cùng gọi là mường âm phủ, ở đó có tổ tiên người Việt. Thuật ngữ gọi cấu trúc này là ba tầng bốn thế giới. Người chế tác ra mô hình vũ trụ như thế là người làm chủ cả vũ trụ, đấy là người được tôn làm thủ lĩnh thời các vua Hùng .

Lần đầu tiên, mô hình vũ trụ ấy được gọi là trống đồng khi được nhắc tới trong sách Hậu Hán thư của Trung Quốc, được viết vào thế kỷ thứ 5, trong đó chép sự kiện Mã Viện đi trấn dẹp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đầu công nguyên, nguyên văn như sau: Mã Viện ư/ Giao Chỉ đắc/ Lạc Việt đồng cổ, tức là: Mã Viện ở đất Giao Chỉ đã lấy được những chiếc trống đồng của người Lạc Việt. Như vậy là người phương Bắc gọi cái mô hình vũ trụ, biểu tượng quyền uy của các vua Hùng là trống đồng. Trong sách Hậu Hán thư còn ghi rõ Mã Viện đã cướp những chiếc trống ấy đem về đúc thành những con ngựa bằng đồng rồi đặt ở cổng thành Lạc Dương, kinh đô nhà Hán lúc bấy giờ.

Thâm ý trong hành động này của Mã Viện là muốn nhắc người Việt rằng, biểu tượng quyền uy, mô hình vũ trụ của dân tộc Lạc Việt bây giờ đã bị biến thành những con ngựa để canh cổng thành cho nhà Hán. Về bản chất, đây là một kiểu chiến tranh tâm lý nhằm hạ uy tín, thủ tiêu sức mạnh tinh thần của người Việt.

Đối sách của tổ tiên ta thời kỳ đó là đem những bảo vật, mà người phương Bắc gọi là trống đồng ấy, đem đi chôn. Và đến hôm nay, nhiều chiếc trống đồng quý vẫn tìm thấy trong lòng đất. Bảo vệ giá trị tinh thần giá trị văn hóa của dân tộc chống lại chiến tranh tâm lý của ngoại bang cũng là một phương cách giữ nước của ông cha ta. Đó là bài học thứ hai.

Ngày nay, bên cạnh cuộc chiến khắc nghiệt trên thương trường, thì lấn át về văn hóa cũng là một cách gây ảnh hưởng và khẳng định vị thế “bề trên”. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà khoa học phản ứng bộ phim kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội được quay và dựng ở Trung Quốc. Trong bối cảnh hội nhập, chúng ta không nên và không thể đi theo xu hướng “bài Hoa” hay tẩy chay bất kỳ một dân tộc nào, nhưng cũng quyết không để truyền thống và bản sắc dân tộc bị đánh cắp một cách trắng trợn. Đã có lúc chúng ta để cho phim Trung Quốc làm mưa làm gió trên làn sóng, thậm chí vào cả những giờ vàng.

Điều đáng chú ý là sự lấn át về văn hóa này sẽ đi từ từ, bằng những cách êm dịu, uyển chuyển thông qua những cửa ngõ và vùng xung yếu của đất nước. Nền văn hóa truyền thống của nhiều sắc dân miền núi phía Bắc, đặc biệt dân tộc Mông, đang bị xâm lăng. Bản sắc của nhiều dân tộc thiểu số ít được quan tâm lưu giữ, hoặc nếu có cũng không hiệu quả, trong khi đó văn hóa ngoại lai chưa được chọn lọc lại đang tràn vào dữ dội. Thị trường băng đĩa cho dân tộc Mông là ví dụ điển hình. Chúng ta đều biết hai dân tộc chiếm số lượng đông đảo ở phía Bắc (nơi phên giậu của tổ quốc) là Mông và Thái. Người Mông dữ dội, người Thái hiền hòa, nhưng cả hai cùng chung một đặc điểm là tinh thần dân tộc rất cao. Họ ý thức rất rõ quá trình thiên di từ Trung Quốc, quê hương của họ, xuống phương Nam (nước ta) cách đây vài thế kỷ. Đó là điều lưu ý thứ tư.

Trong lịch sử, nếu như Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương) là ông tổ của chiến tranh du kích khi lui binh về đầm Dạ Trạch để đánh giặc Lương, thì “người tiền nhiệm” - Lý Bý (Lý Nam Đế) - lại là người đầu tiên dám xưng đế ở vùng đất mà các hoàng đế Trung Hoa chỉ coi là một quận của họ.

Năm 542 Lý Bí dấy binh đánh giặc Lương và giành chiến thắng vào năm 544. Lý Bí tự xưng Hoàng Đế, lấy hiệu Lý Nam Việt Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân (Vạn Xuân nghĩa là ước muốn xã tắc truyền đến muôn đời). Chữ đế ở đây rất có ý nghĩa bởi từ thời Hùng Vương, có luật bất thành văn là, thiên hạ xuất hiện nhiều bậc quân trưởng, những bậc quân trưởng ấy có thể làm vua từng miền, từng nước, nhưng chỉ được xưng vương và cao nhất là đại vương chứ không được phép xưng đế. Chức danh đế thì chỉ một người làm quân trưởng ở nước Trung Hoa được phép xưng mà thôi. Cái luật không thành văn này rất khắc nghiệt. Nếu vùng nào có người xưng đế thì bị kết tội tiếm xưng đế hiệu và quân đội thiên triều từ Trung Hoa sẽ kéo tới trừng phạt. Nhưng bây giờ ở nước Việt phương Nam lại có một người họ Lý xưng đế. Cho dù Lý Bí ở ngôi vỏn vẹn có 4 năm nhưng sự kiện này đánh dấu sự bình đẳng, sự trưởng thành về ý thức dân tộc. Đây là lần đầu tiên, ở thế kỷ thứ 6, người Việt khẳng định làm chủ nước Việt với tư thế hoàn toàn mới: Phương Bắc có Bắc Đế thì phương Nam có Nam Đế.

Lịch sử đã chứng minh, kẻ thù phương Bắc luôn rình rập nhằm hạ uy tín, triệt tiêu tinh thần dân tộc của người Việt. Chúng ta càng nhún nhường thì chúng càng lấn tới. Dũng cảm và đầy khí phách vượt qua cái bóng của thiên triều là điều ông cha ta đã làm được và thành công. Đó là điều lưu ý thứ năm.

Đem lịch sử rọi chiếu vào những vấn đề hôm nay (đang diễn ra ở Biển Đông) thì có nhiều điểm chúng ta băn khoăn. Vẫn biết đối sách của chúng ta là mềm mỏng, hòa hiếu, hòa bình…, nhưng đừng để người dân hoài nghi khi nhà chức trách không (hoặc chưa) biểu lộ một thái độ kiên quyết và dứt khoát trước những chứng cứ rành rành về sự lấn lướt của phía bên kia.

Trong khi báo chí chính thống của Trung Quốc rêu rao “Việt Nam vô ơn bội nghĩa”, “Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc…”, cùng nhiều lời lẽ, ngôn từ mang tính răn đe, hù dọa kiểu nước lớn như “dạy cho VN một bài học thứ hai”, “thời cơ cho sử dụng vũ lực ở Biển Đông…” thì đến câu “quân Trung Quốc tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc vào ngày 17/2/1979” trong SGK (đã có giai đoạn) chúng ta phải cắt bỏ. Một thực tế lịch sử như thế sao không dám khẳng định một cách đường hoàng?

Không dám nói một thực tế lịch sử (thể hiện khí phách của dân tộc) đồng nghĩa với việc làm nhụt ý chí, làm mất niềm tin và sức mạnh của dân tộc.
Từ cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 1979, Việt Nam chịu mọi sự o ép của Trung Quốc và trên thực tế Việt Nam đã nhún nhường trên tinh thần hữu hảo, anh em, hòa bình để phát triển…, nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục gây rối tiến đến đòi chiếm hữu một cách phi lý phần lớn Biển Đông.

Nhà nghiên cứu kinh tế biển, GS Chu Hồi có lần nói: “Với Biển Đông, từ thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc đã thống nhất về chủ trương và kỷ cương trong hành động.” Do vậy, liệu có nên nghĩ rằng, thái độ mềm mỏng đến mức yếu đuối của Việt Nam sẽ được một nước mà tư tưởng bành trướng có từ thời cổ đại, xem xét chiếu cố?

Ngô Thiệu Phong