Mô hình Đại học Quốc gia - Đại học vùng: Vừa đội nón, vừa che ô( NĐBND)
22/12/2010
Câu chuyện xung quanh việc thành lập Đại học Quốc gia - Đại học vùng không phải bây giờ mới có. Nhưng (cũng như sự kiện tại chức của Đà Nẵng), đến hôm nay mới có một trường thành viên dám đứng ra nói thẳng những bức bối và nêu ước nguyện của mình.
04-Vua-doi-35610-300.jpg
Miền Trung năm nay quả là có nhiều sự kiện giáo dục. Sau sự kiện Đà Nẵng kiên quyết không nhận sinh viên tại chức là phát biểu của TS Phan Thanh Bình, Hiệu trưởng ĐH Nghệ thuật, tha thiết đòi xin ra khỏi ĐH Huế. Một cán bộ của trường ĐH Nghệ thuật nói: nếu cho 3 điều ước, thì điều 1 là ra khỏi ĐH Huế, điều 2: ra khỏi ĐH Huế và điều 3 cũng là ra khỏi ĐH Huế.
Về mô hình ĐHQG và ĐH vùng, có thể sơ lược như sau: cuối những năm 1980, quy mô các trường ĐH ở nước ta rất nhỏ (trên dưới 1.000 SV), hầu hết là đào tạo đơn ngành, theo mô hình của Liên Xô cũ. Một số nhà quản lý GD cho rằng, mô hình ấy không phù hợp với nền kinh tế đang có những thay đổi cơ bản, vì thế cần phải chuyển sang đa ngành, đa lĩnh vực. Muốn vậy, cần hợp nhất, sáp nhập các trường ĐH thành đa ngành. Đây là lý do chính để hình thành 2 ĐHQG (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh) và 3 ĐH vùng (Thái Nguyên, Huế và Đà Nẵng).
Các ĐH vùng ra đời theo Nghị định 30/CP của Chính phủ vào tháng 4.1994. ĐHQG Hà Nội ra đời năm 1993 và 2 năm sau (1995) ĐHQG TP Hồ Chí Minh tiếp tục được thành lập. Đây là mô hình tập hợp nhiều trường ĐH, với mục đích sử dụng chung đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất trường lớp, phòng nghiên cứu... Khi sáp nhập, kinh phí nhà nước tập trung vào một đầu mối, tạo điều kiện cho quản lý, sử dụng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện lại không như ý muốn.
Nếu như thời điểm đề xuất ý tưởng thành lập ĐHQG và ĐH vùng, số SV các trường còn ít, thì ngay sau khi thành lập, số SV đã tăng vọt, gây quá tải cho một cấp quản lý còn non nớt, dẫn đến trục trặc, rắc rối phát sinh. Trong khi đó, công tác tổ chức, thiết kế, xây dựng bộ khung quản lý cho ĐHQG, ĐH vùng cũng chưa khoa học. Hình như ai cũng sợ mất “ghế” nên không giảm được các vị trí quản lý. ĐHQG, ĐH vùng có ban gì thì ở trường có phòng nấy. Gần đây, nhiều trường thành viên còn tái lập hàng loạt phòng chức năng như trước khi sáp nhập. Điều này dẫn đến Ban giám đốc ĐHQG và ĐH vùng trở thành cấp trung gian. Mục đích ban đầu của ĐHQG và ĐH vùng không thực hiện được khiến nó trở thành một mô hình cồng kềnh, tốn kém, ít hiệu quả. Người nước ngoài rất khó hiểu hệ thống GDĐH Việt Nam. Nếu như ĐHQG, ĐH vùng là University thì các trường thành viên cũng là University, nghĩa là trường ĐH trong ĐH. Con dấu của 2 ĐHQG cũng mang hình quốc huy như Bộ GD - ĐT. Thủ tướng trực tiếp điều hành cả Bộ GD - ĐT và 2 ĐHQG. Có người nói, ở Việt Nam có... 3 Bộ GD - ĐT cũng có cái lý của nó. Với mô hình này, nhà nước phải chi thêm một khoản kinh phí quản lý cho ĐHQG và ĐH vùng (hoặc cân đối trong tổng số kinh phí được cấp). Đây là khoản tiền rất lớn mà các trường thành viên thấy phi lý và chưa công bằng. Trong quá trình hoạt động cũng nảy sinh nhiều rối rắm, ví dụ như có nhiều nội dung các trường phải báo cả ĐH vùng, ĐHQG và Bộ GD - ĐT; nhiều cuộc họp ban giám hiệu trường thành viên và lãnh đạo của ĐHQG, ĐH vùng đều tham dự...
Hiệu quả của ĐH vùng, ĐHQG chưa rõ nét nên có người nhận xét cấp trung gian này thừa, là mô hình vừa che ô, vừa đội nón. Đưa ra một quyết định nào đó lúc này thật khó khăn nhất là với một mô hình mà tên gọi của nó trong Luật GD cũng không thấy nhắc đến. Còn những người đang chấp bút cho dự thảo Luật GDĐH cũng thấy lúng túng với ĐHQG và ĐH vùng.
Ngô Thiệu Phong