Người Tây Bắc hiếu khách
Ngược
quốc lộ 6, qua Hoà Bình, cái nôi của văn hoá Mường với Bi-Thang-Vàng-Động, leo
gần 100 km đèo nữa là tới cao nguyên Châu Mộc, cao 800-1.000 m. Lên tới đây là
bước chân vào vùng Tây Bắc, vùng đất mang đậm dấu ấn văn hoá Thái, quê hương
của những điệu xoè điệu khắp, nơi có rừng hoa ban nở trắng trời.
Thực ra đây không phải là vùng đất mà người Thái đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc thiên di của mình. Từ thế kỷ XI, theo dòng sông Hồng (Nậm Tao), người Thái đổ bộ vào Nghĩa Lộ (Mường Lò) rồi từ đó con cháu của Tạo Xuông, Tạo Ngần tiến dần sang các vùng Sơn La, Điện Biên (giáp Lào). Đất ấy, tên Thái là Mường Theng, tức là mường trời mà ngày nay chúng ta vẫn đọc trại ra thành Mường Thanh (Điện Biên).
Lên tới Mộc Châu là nghe tiếng thông reo vi vút
với rừng tre rừng vầu ngút ngàn trong sắc trắng hoa ban. Phải chăng chính vì thế
mà châu Mộc có tên Thái là Trảng Tre, Trảng Ban (Phiêng Xang, Phiêng Ban)? Ấy
là nói những năm trước đây, chứ bây giờ hoa ban còn ít lắm.
Từ cao nguyên Mộc Châu đổ xuống thung lũng Yên Châu rồi vượt qua dãy Chiềng Đông đến Nà Sản về Sơn La: Không thấy hoa ban. Từ Sơn La vượt hơn 30 cây số đèo Pha Đin, nơi ngăn cách giữa trời và đất, nơi bông hoa ban thấm đẫm trong từng câu dân ca Thái để đến Tuần Giáo: Cũng khó gặp hoa ban. Núi rừng hầm hập nóng trong gió Lào của đất Yên Châu, lạnh lẽo và cô quạnh trong mù sương trên đỉnh Pha Đin. Đến lúc này, người ta mới thấy quý bóng cây ban.
Hoa Ban mất đi không phải lỗi của người dân nơi
đây. Người Thái bảo vệ rừng ban vì nó là biểu tượng văn hoá của quê hương, vì
chỉ có cây ban mới mọc được nơi đất cằn, độ dốc lớn. Nhờ cây ban giữ lại mùn mà
đất cằn tái sinh, mà nước mưa ngấm vào lòng đất ngăn nhưng cơn lũ ống bất chợt
tràn về. Cây ban không cho gỗ, cây ban đun cũng không cháy. Chỉ có bát canh hoa
ban cho con trẻ no lòng khi giáp hạt.
Luật và tín ngưỡng tôn giáo của người Thái trước đây quy định bản nào cũng có hai khu rừng hoang dại mang tên rừng kiêng (đông căm) hay rừng ma (đông phi) và một khu rừng cấm chặt phá để bản tổ chức "Ngày hội hái măng" (Há nó pá hẳm). Vì không ai dám chặt phá nên trước đây rừng nguyên sinh vẫn còn. Chẳng riêng gì người Thái, cả người Mông trên núi cao, người Khơ Mú, Kháng, La Hả... trong rừng sâu đều tự nguyện tuân theo luật Thái. Bởi đó là quyền lợi lâu dài của tất cả các dân tộc trong vùng.
Cây ban không còn, rừng cũng không còn, gió Lào
như những lưỡi lửa vô hình quất vào đá núi. Chiếc khăn piêu rực rỡ không còn
che đỡ nổi cái nắng lúc hạ về. Cô gái Thái bây giờ phải mang thêm cái nón của
người xuôi. Với những cô gái đã lập gia đình, đầu đã búi tóc (tẳng cẩu), đội
cái nón vào trông rất ngộ, mất hẳn đi sự cân đối, có cảm giác mong manh và chông
chênh.
Người Tây Bắc nói chung và người Thái nói riêng sống chân thật, hoà thuận. Trong bản cũng như trong gia đình ít khi to tiếng với nhau. Đặc biệt, hiếm khi thấy bố mẹ đánh đập con cái. Sống đoàn kết và thương yêu nhau là nét chủ đạo trong cuộc sống của người Thái. Tục ngữ Thái có câu: "Một thân không thể ngồi trên nong tự nhấc, không thể ngồi trên gốc tự nhổ" (Phủ điều báu năng đổng hak nho, báu năng to hak cốn). Cho nên khi đói kém, bản Thái và các dân tộc anh em vùng Tây Bắc sẵn sàng chia sẻ lương thực cho nhau. Có lẽ phải tiếp cận từ góc nhìn như thế thì mới lý giải nổi sự tồn tại trong hàng chục năm của các quán hàng tự giác trên khắp các nẻo đường Tây Bắc. Những quán hàng tự giác như thế ngày nay chỉ còn trong những câu chuyện cổ tích.
Người Thái ngày nay vẫn hiếu khách. Chẳng cần biết lạ hay quen, thân hay sơ, khách đến nhà là được ngủ với chăn mới, đệm mới do chính bàn tay khéo léo của các cô gái Thái làm nên. Là con gái Thái thì không được phép ngừng tay làm vải và phải đạt đến độ tinh xảo: "Sấp đôi tay đã thành hoa văn, ngửa bàn tay đã thành hoa lá" (Khuổm mư pên lai, hai mư pên pok). Có lẽ cũng chính vì thế mà người Thái gọi bạn trăm năm là vợ con tay guồng sợi tơ. Con gái Thái đẹp nhưng siêng năng, khéo tay mà hiền thục. Nhà có khách, các cô gái Thái bẽn lẽn quỳ cả buổi để tiếp rượu. Khách hoặc chủ có lỡ say thì đó cũng là cái sự quá vui mà thôi. Gần đây, một vài người có chê trách tật uống rượu say của người Tây Bắc. Thực ra đó không phải là tập quán. Uống rượu thì có, nhưng việc say xỉn thì ngay cả người Thái cũng lên án. Bởi vậy mới có câu: "Uống rượu đừng uống say, say nhiều thành vơ vất người đời cười chê" (Kin lảu nha mau lai, mau lai pên báng pa pươn tay hua nả). Nếu cứ trách như thế thì hoá ra ta đã hiểu nhầm lòng chân thành và hiếu khách của bà con mất rồi.
Ngô Thiệu Phong -1998
(Quán tự giác: không có người bán, ai mua thì tự bỏ tiền vào giỏ, bỏ bao nhiêu thì tuỳ. Trong bài có sử dụng một số câu thành ngữ Thái lấy từ sách của GS Tô Ngọc Thanh)
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ